Saturday, September 11, 2010

Paris (18 photos), by Ha Nguyen


I'd like to share my Snapfish photos with you. Once you have checked out my photos you can order prints and upload your own photos to share.
Click here to view photos

Thursday, January 28, 2010

MÙA XUÂN TRONG CỬA PHẬT Hoàng Hương Thủy

Tháng 7 ngày 26 năm 2017
Chị đi rất mau.
Tôi rất đau, rất buồn và đã khóc.
Khóc vơi, tôi nhủ lòng sẽ vui
Vì CHỊ về với MẠ
CHỊ đi về CỰC LẠC nơi CHỊ vẫn nguyện mong khi từ giã hồng trần.
Cứ vậy mà đi hí chị Thuỷ
Cứ theo hào quang của Đạo Sư Tiếp Dẫn
Chị sẽ được ngồi dưới chân Đức A Di Đà. Bên kia bờ Bỉ Ngạn.

LOLO




Khi mùa Giáng Sinh và Tết Dương lịch đến là mùa đông lạnh giá cũng đang về mang theo tuyết trắng phủ ngập đường sá, dày nặng trên mái nhà, che lấp xe cộ ven đường… Đó là mùa lạnh miền Đông nước Mỹ. Còn ở miền Tây, xứ Cali nắng ấm cũng bắt đầu có những cơn mưa tưới tẩm ruộng vườn đồi núi. Những con sông khô cạn qua mấy năm liền hạn hán cũng bắt đầu có nước tràn về, đầy sông, chảy lao xao róc rách len qua các lùm cây, bụi cỏ làm tươi mát không gian. Mùa đông ở đây tuy không rét buốt băng giá nhưng cái lạnh sau cơn mưa cũng có khi xuống đến 40 độ F. Cái lạnh khô ấy cũng làm tê tái những người già và em bé. Bệnh cảm cúm cũng theo đó đến viếng thăm nhiều người …
Mùa đông đến cũng có nghĩa là mùa đông đang đi, đang trôi theo dòng thời gian với bốn mùa Xuân ,Hạ, Thu, Đông… rồi lai Xuân. Con người cũng bận rộn theo tháng năm, tất bật làm ăn sinh sống suốt bốn mùa nên nhiều khi quên đi tiếng đập của thời gian. Mỗi ngày như mọi ngày nên quá quen với sự đổi thay của nước chảy mây trôi ngày qua tháng lại để miệt mài với công việc của đời thường. Cứ thế cho đến khi ngừng, nghỉ, chợt ngẩng mặt nhìn trời thì chao ôi, cỏ cây hoa lá đang hồi sinh dưới nắng ấm của mùa Xuân mới đang về.
Chồi non, cây xanh, cỏ mượt, hoa tươi thắm đang hé nụ tươi cười trong cái se lạnh còn sót lại của mùa đông qua. Phải chăng mùa Xuân lại đang về ...
“Ô hay Xuân đến bao giờ nhỉ?
Nghe tiếng hoa khai bỗng giật mình.
Sáng nay thức dậy choàng thêm áo,
Vũ trụ muôn đời vẫn mới tinh!”
Đó là lời của nhà thơ – là thi sĩ Huyền Không - là hòa thượng Mãn Giác.
Khi mà thời gian tuông chảy đêm ngày không ngừng nghỉ và sự đời cũng chảy tuông như thế thì có gì mà không mới mẻ trong từng khoảnh khắc?
Nói đến mùa Xuân là nói đến sự tươi đẹp an lành. Thế nhân thường mượn mùa Xuân để nói đến cuộc sống tươi vui đầy sức sống vươn lên, nên tuổi trẻ được gọi là tuổi thanh xuân, tuổi đầy sức sống.
Và muốn được sống tươi vui như mùa xuân thì cần phải có Tâm Mùa Xuân, tức là lúc nào lòng cũng mới mẻ, tươi vui, không cũ kỹ, khô cằn như mùa thu lá rụng, mùa đông lạnh giá. Có lẽ nhà thơ muốn nói với chúng ta như thế.
Sư Tổ Trúc Lâm cũng có bài kệ về mùa Xuân mới:
“Thủy khởi khải song phi
Bất tri Xuân dĩ qui
Nhất song bạch hồ điệp
Phách phách sấn hoa phi”
Bản dịch:
Ngủ dậy mở cửa sổ
Ngờ đâu Xuân đã về
Một đôi bươm bướm trắng
Nhịp cánh nhắm hoa bay.
“Ngủ dậy”, phải chăng Tổ Sư muốn nhắn nhủ với chúng ta là chúng ta đã tỉnh giấc mê muôn thưở? để mắt thấy, tai nghe, mũi ngửi mà không vướng mắc, để chỉ thấy chân tâm hiện tiền … sáng ngời, còn tìm đâu xa, mở cửa sổ liền thấy bướm trắng nhẹ nhàng bay đến bên cành hoa.
Xuân đến làm đổi mới không gian, con người và cuộc đời. Xuân đến cho ta niềm tin yêu mới, rọi xuống hồn ta những tia hy vọng. Ta cứ việc ươm niềm tin yêu hy vọng ấy vào những ngày đầu xuân thì ta sẽ buông bỏ được mọi ưu tư phiền muộn của cuộc sống, quên đi những vất vả khó khăn của đời thường, để trọn vẹn sống với những ngãy Xuân, ngày Tết. Lúc đó chắc chắn ta sẽ thấy được “Vũ trụ muôn đời vẫn mới tinh” như hòa thượng Mãn Giác đã thấy. Vậy ta hãy cứ vui xuân, hưởng xuân và hãy cứ khoác lên mình chiếc áo nhuộm màu vũ trụ mới toanh.
Ngày xưa, rất xưa, cách đây đến 10 thế kỷ, thiền sư Mãn Giác thế kỷ thứ 11 đời Lý cũng đã từng làm thơ ca tụng mùa xuân mới, cho dù Xuân đến, Xuân đi, Xuân tàn, nhưng qua thơ, Ngài đã để cho mùa Xuân khi tái sinh, bởi vì hoa lá, cây cành tưởng tàn úa khi đông qua, lại bắt đầu cho ta những chồi non, những nụ hoa tươi thắm.
Hãy lắng nghe tiếng thơ của Thiền Sư:
“Xuân khứ, bách hoa lạc
Xuân đáo, bách hoa khai
Sự trục nhãn tiền quá
Lão tùng đầu thượng lai
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.”
Bản dịch của Ngô Tất Tố:
“Xuân đi trăm hoa rụng
Xuân đến trăm hoa cười
Trước mắt việc đi mãi
Trên đầu già đến rồi
Đừng bảo xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua sân trước một cành mai.”
Thiền Sư Mãn Giác bắt đầu bài thơ bằng từ “rụng” và kết thúc bài thơ bằng từ “nở”.
Xét nội dung tuần hoàn, vốn không đầu không cuối thì rụng rồi nở hay nở rồi rụng thì cũng giống nhau thôi, nhưng hiệu ứng cảm xúc thì có khác. Phải chăng Thiền Sư muốn tạo cho nhân sinh một niềm tin – rụng rồi sẽ nở:
“Đừng bảo xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua sân trước một cành mai.”
Nhưng nếu nói ngược lại thì nó sẽ như là một lời cảnh cáo: nở ra rồi thì cũng rụng thôi!
Luân hồi là giáo lý nền tảng của Phật Pháp, cũng như Nhân và Quả. Việc sống chết như hai mặt của một tờ giấy, có sinh thì có hóa, có hóa tất có sinh.
Người đắc đạo bình thản nhìn cõi tịch diệt như cõi trở về. Thơ của vị cao tăng viết khi có bệnh mà mở đầu đã nêu luật luân hồi hẳn là để đạt an nhiên cho tâm trí, thanh thản chấp nhận qui luật sinh hóa. Còn hay mất thì cũng là hư ảo. Lòng người sẽ lặng và trong như mong muốn của bao bậc tu hành.
Toàn bài thơ là cả một khối giáo lý liền mạch về cõi vô thường - trong đời không có cái gì tồn tại mãi. Xuân đến xuân đi, hoa rụng hoa nở. Việc đời đổi thay, trẻ qua già tới.
“Xuân khứ bách hoa lạc
Xuân đáo bách hoa khai”
(Xuân đi trăm hoa rụng
Xuân đến trăm hoa nở)
Các lập luận trong bốn câu thơ đầu là cùng chiều.
Nhưng hai câu kết thì lại khẳng định: Mùa Xuân là vĩnh viễn, cái đẹp là vĩnh hằng – như là mâu thuẫn với thuyết không có gì là vĩnh cửu ở trên. Hay đó là phút đốn ngộ của vị thiền sư thoạt tìm ra chân lý? Thuyết vô thường của nhà Phật đã trở thành chân lý để giải thích mọi biến thiên.
Nếu hai câu đầu nêu thuyết luân hồi như một chính đề thì hai câu ba bốn lại như một phản đề. Chính đề từ giáo lý, phản đề là hiện tượng trong đời sinh động và cụ thể.
“Sự trục nhãn tiền quá
Lão tùng đầu thượng lai”
(Trước mắt việc đi mãi
Trên đầu già đến rồi)
Việc đời vô thủy vô chung, đuổi nhau ngay trước mắt mình, không thể không thấy. Còn sự già nua thì cứ đầu mình mà tới (tóc bạc), muốn tránh cũng không được.
Phối ý hai câu thơ lại sẽ thành tiếng thở dài ngậm ngùi trong luận đề phi lý của triết học hiện sinh.
Hai câu đối nhau chặt chẽ, bàn lẽ rộng xa, nhưng chứng cứ thì hội tụ vào thân xác con người (mắt, đầu). Đây chính là đặc sắc của Thiền học Lý Trần Việt Nam. Sống bền chắc với đời để mà vui cõi đạo (Cư trần lạc đạo).
Nắm chắc giáo lý vĩnh cửu của Phật Pháp nhưng các thiền sư vẫn lắng nghe tiếng đập cửa hằng ngày của cuộc đời. Tất cả nằm trong câu 3 và 4. Có thể thuyết luân hồi chưa đủ cho lòng người yên ổn chăng?
Vì vậy mà những nhà thơ đời thường như Xuân Diệu đã nói lên tiếng nói của tình yêu lứa đôi, của khổ đau và hạnh phúc, của những trăn trở vui buồn, được mất. Tiếng than trách đó ta nghe quá nhiều qua thơ văn mới thời tiền chiến như:
“Yêu là chết ở trong lòng một ít
Vì mấy khi yêu mà chắc được yêu
Cho rất nhiều nhưng nhận chẳng bao nhiêu”
Người ta đã tính toán so đo trong tình yêu – cho và nhận. Đó là thứ tình yêu ích kỷ, muốn chiếm đoạt, cho nên họ buồn chán đau khổ than khóc. Cho nên họ khác với các thi sĩ thiền sư, họ đâu thấy được đông tàn xuân lại đến, hoa rụng rồi hoa lại nở khi mùa xuân mới lại trở về.
Chế Lan Viên cũng thấy xuân đang đến nhưng không thấy được mùa xuân tươi mới mẻ. Xuân đến mà ông lại than:
“Tôi có chờ đâu có đợi đâu
Đem chi xuân lại gợi thêm sầu
Với tôi tất cả đều vô nghĩa
Tất cả không ngoài nghĩa khổ đau.”
Có lẽ trong một lúc nào đó thấy cuộc sống là vô vị, vô nghĩa, một ngày như mọi ngày, cuộc sống cứ trôi đi trong cái “hỉ nộ ái ố” nên chỉ thấy khổ đau, buồn chán mà không nhìn thấy được cái hạnh phúc tái sinh của muôn loài qua dòng trôi chảy.
Không là nhà tu, không là thiền sư nên người đời đã đánh mất niềm tin yêu hy vọng. Họ đâu thấy được hoa rụng rồi hoa nở. Họ chỉ thấy sinh già bệnh chết, cuộc đời ngắn ngủi quá, cuộc sống phi lý quá! Làm sao thấy được hết chu kỳ của cuộc sống, con người và cỏ cây hoa lá lại tái sinh. Xuân, Hạ, Thu, Đông, rồi lại Xuân. Người già cứ đi vào cõi thiên thu thì trẻ thơ, em bé lại được sinh ra để rồi đi vào đời, biết đâu với một tâm hồn mới mẻ, trẻ trung hơn.
Dòng đời cứ trôi chảy như luân hồi sinh tử, như dòng thời gian cứ cuốn trôi sáng trưa chiều tối, như bốn mùa luân phiên đổi thay.
Trong “Phấn Thông Vàng”, Xuân Diệu đã nhìn cuộc đời trôi đi với nỗi chán chường tuyệt vọng, cũng cố ngoi lên để sống, nhưng là cái vươn lên của những người níu kéo cuộc sống trong tuyệt vọng. Cũng chỉ là “để tìm quên” mà thôi!
“Ai lại không nghe ít ra là một lần nỗi đìu hiu của ao đời bằng phẳng. Chúng ta nhảy múa gào khóc, quay cuồng để cho có việc, nếu không ta sẽ thấy một sự vắng vẻ vô cùng thê lương. Và dù siêng năng đến đâu đôi lúc ta cũng bắt gặp ở đáy hồn ta một nỗi trống không rất tuyệt vọng”.
Xuân Diệu thời hiện đại mà cũng còn viết
“Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại”
Xuân đến, hoa nở, nhưng mùa hoa này với ông không còn như mùa hoa trước.
Thơ nhân loại cổ kim đã có nhiều bài diễn đạt thành công nỗi buồn tức tưởi của con người như Thôi Hiệu của Trung Hoa viết:
“Hạc vàng bay mất từ xưa
Nghìn năm mây trắng bây giờ vẫn bay.”
(Tản Đà dịch)
Một nhà thơ của Ý, Salvatore Quasimodo, bên trời Âu cũng thấy nỗi buồn cô đơn:
“Mỗi người đứng một mình
Trên trái tim quả đất
Lòng xuyên qua tia nắng mặt trời
Và chưa chi chiều đã tắt”.
Cho nên học tu là học buông bỏ, chấp nhận cuộc sống như nó vốn là, nó cứ đến rồi nó cứ đi, nhưng ta thì vẫn phải sống.
Bài thơ của vị Thiền sư thế kỷ 11 là một quá trình giác ngộ chân lý. Câu thơ “Đêm qua sân trước một cành mai” đã hòa nhập với câu thơ “Vũ trụ muôn đời vẫn mới tinh” của hòa thượng Mãn Giác thế kỷ 20 để từ đó cùng nhau:
“Ta từ sinh tử về chơi
Ngồi trên chóp đỉnh mỉm cười với trăng.”
(Huyền Không – HT Mãn Giác)
Xuân đi xuân đến, hoa rụng hoa nở là niềm tin yêu hy vọng cho chúng ta. Hãy vui cùng Xuân mới, hãy cười với ngày Tết đến vì không gian đang đổi mới, ta cũng hy vọng hồn ta cũng mới theo. Những tâm hồn già nua ưa triết lý, lý luận thì dù triết lý lý luận có nhanh đến đâu cũng không thể bắt kịp nhịp đời đổi mới này.
Chỉ những tâm hồn trẻ thơ, không toan tính so đo, không chất đầy ý tưởng, những tâm hồn luôn mở rộng cửa đón chào sự sống nảy sinh trong từng giây phút mới là những tâm hồn sống thực sự trọn vẹn. Đó là những tâm hồn luôn mới mẻ.
Cho mãi đến bây giờ tôi mới hiểu tại sao nhân gian lại gọi ngày Tết là “Tết Di-Lặc”. Vì ngài là Phật của Tết, của Xuân. Vì Phật Di Lặc đã mãi mãi mang một nụ cười.
Có thứ màu trẻ trung nào hơn để trang điểm cho trẻ mãi bằng nụ cười? Phật Di Lặc không chỉ cười một lần. Ngài cười suốt thiên thu. Mùa Xuân trong cửa Phật thật có khác.
Nhưng làm sao cười hồn nhiên được khi lòng chất chứa bao thị phi ngang trái, thân dính mắc bao cảnh đời danh lợi nổi chìm? Nhà Phật bảo: “Buông xả, buông xả”.
Chỉ hai tiếng mà vẽ nên nền Đạo thiên kinh vạn quyển. Thì ra kinh đã vẽ đường cho chúng ta đi. Và đi là “vượt qua, vượt qua”. Vượt qua là buông xả, buông xả là vượt qua.
Có người hỏi Hóa thân Di Lặc:
- Phật Pháp là gỉ?
Hóa thân bỏ bị vải xuống.
Hỏi thêm:
- Có gì hay nữa không?
Hóa thân vác bị cất bước lên đường.
Trừu tượng một chút, ta có thể nghe được:
- Phật Pháp là gì? – Là buông xả
- Có gì hay nữa? - Sống
Thì ra buông xả mà vẫn cứ sống, sống khắp nơi, khắp chốn mà vẫn cứ là buông xả hết mọi sự.
Cũng có người hỏi Hóa thân Di Lặc:
- Hòa thượng ở đâu?
Hòa thượng đáp:
- Bình bát cơm ngàn nhà, thân chơi muôn dặm xa. (Nhất bát thiên gia phạn, Cô thân vạn lý du.)
Âm hưởng của câu thơ chữ Hán nồng nàn và mênh mang, cho ta hình dung được nỗi cô liêu của một con người.
Sử sách ghi thêm một hóa thân Đức Di Lặc: cũng cốt cách anh hùng mà hồn nhiên trẻ thơ đến lạ.
Ngày nhỏ tôi thuờng theo mẹ đi chùa nhưng tôi không vào lễ Phật mà thường quanh quẩn bên tượng Phật Di Lặc. Tôi thích nụ cười của Ngài, cười toe toét, cười một cách thoải mái. Năm đứa bé phá phách đeo bên mình móc tai móc mũi móc miệng … mà Ngài vẫn cười. Ngài là con người hạnh phúc, con người của mùa Xuân, ai nhìn vào cũng thấy hoan hỉ, cũng muốn cười theo. Nhưng làm sao cười được như thế? Chính là do tâm Ngài hỷ xả.
Bỗng một ngày tôi gặp được hai câu:
“Bụng lớn năng dung, dung những điều khó dung trong thiên hạ
Mắt từ thường xả, xả những điều khó xả của thế gian.”
Được ghi dưới tấm ảnh vẽ hình đức Di Lặc. Tôi thích chí vô cùng và cố gắng nguyện sống được phần nào theo câu kệ ấy. Nguyên văn chữ Hán tôi cũng tình cờ đọc được:
“Đại đổ năng dung, dung thế gian nan dung chi sự
Hàm nhan vi tiếu tiếu thế gian nan tiếu chi nhân.”
Cái duyên may cho tôi được đến với Ngài, yêu Ngài, kính Ngài và học theo hạnh hỷ xả của Ngài qua hai lần tình cờ đọc kệ và kết hợp lại và tâm đắc.
Và ngày nhỏ xa xưa ấy tôi đã yêu thích nụ cười hồn nhiên tự tại ấy của Ngài cùng năm đứa bé đeo quanh Ngài. Ngày ấy tôi cũng hay sờ vào cái bụng lớn của Ngài rồi tự nhiên tôi cũng cười theo vui vẻ cùng Ngài và mấy đứa bé.
Tôi là một Phật tử đi chùa nghiệp dư, kinh kệ không thuộc nhưng tin tưởng rằng chỉ một lòng hướng Phật trong sáng cũng đủ cho tôi có quyền tới lui viếng chùa học Phật.
Những năm tháng ở quê nhà, tôi chưa hề biết học Phật, không hề biết đến Phật pháp, chỉ biết mình theo đạo Phật vì gia đình ông bà tổ tiên thờ Phật, và mỗi đứa con cháu trong gia đình đều được đem đến chùa quy y lúc được một, hai tuổi.
Lớn hơn một chút rồi học hành ra trường và đi xa, tôi được mẹ đeo vào cổ một sợi dây chuyền tượng Quán Thế Âm với lời dặn: “Gặp khó khăn, bất trắc, bệnh hoạn, con hãy cầu ‘Nam mô đại từ đại bi cứu khổ cứu nạn Quán Thế Âm Bồ Tát’ thì Phật Bà sẽ giúp con vượt qua mọi tai ương hoạn nạn”.
Mãi đến khi mẹ tôi gặp được Ni Sư Trí Hải, mẹ tôi mới thật sự học Phật và dẫn dắt tôi theo Sư để bước đầu đi vào đường Đạo. Nhưng một hai năm bên Sư tôi cũng chưa thật sự học hiểu và hành, nhưng tôi đã bước đầu tin yêu và quý trọng những lời nói vàng ngọc của Đức Thế Tôn. Tôi chưa biết hệ thống hóa nền đạo lý của Đức Phật để biết được Phật Pháp của Đức Thế Tôn bắt đầu từ đâu.
Khi rời nước ra đi và định cư tại Mỹ bỗng dưng thấy mình đã đạt đến chân trời tự do, nhưng sao lại thấy lòng mình tràn dâng một mối thương tâm. Thương cảm cho chính mình và thương tiếc một quê hương mãi mãi khổ đau trong đó có những người thân trong gia đình, bạn bè và tuổi trẻ đang khát khao đi tìm một phương trời cao rộng. Những trăn trở thao thức đó trong tôi dần dần được giải tỏa do tôi bước đầu được học Phật, nghe Pháp. Kinh điển, lời dạy, bài giảng, những điều được khuyên nhủ qua các hòa thượng, thiền sư, thiện tri thức ở đây quá nhiều cho tôi tha hồ tìm hiểu. Những buổi thuyết pháp, những phương thức tu học rồi tâm truyền tâm, miệng truyền miệng, tất cả đã giúp tôi mạnh dạn học và hành để đi dần vào Đạo. Cuốn sách đầu tiên tôi được đọc, hiểu và thích thú đã giúp tôi “từng bước nở hoa sen”, đó là cuốn “Đường Xưa Mây Trắng” của thầy Nhất Hạnh. Cuốn sách đã hệ thống hóa trong tôi nền đạo lý siêu việt của Đức Thích Ca, cho tôi niềm tin yêu với đạo Phật, với Tam Bảo, mở ra cho tôi một chân trời Từ Bi và Trí Tuệ, giúp tôi tâm đắc với các bài giảng dạy của Đức Thế Tôn qua hai bài “Tứ Diệu Đế “ và “Bát Chánh Đạo”.
Mới học Phật thì tưởng dễ dàng vì dễ hiểu, dễ thấy được nỗi khổ niềm đau của chính mình, rồi cũng thấy cách điều trị thật giản dị, chu đáo và rõ ràng. Phật như một triết gia, một nhà tâm lý học, một giáo sư tận tụy giúp chúng ta hiểu được Đạo và Đời qua lăng kính Triết hoc, Phật học. Phật như một bác sĩ chân tâm dìu dắt, chữa trị những trạng thái bệnh hoạn trong thân, tâm, ý của ta. Chưa có ai giúp ta nhìn thấu suốt tâm can của mình để phân biệt thiện ác, để cố gắng tìm đến con đường Chân Thiện Mỹ như những lời vàng ngọc của Phật. Tôi tin chắc ai mới học Phật cũng đều thấy sung sướng hạnh phúc pha lẫn
Một chút hãnh diện. Thế nhưng học Phật và hành Pháp thật không dễ vì hai chữ “vô thường” chợt đến, chợt đi, để những vướng mắc sai trái cũng chợt đi rồi chợt đến; rồi vọng tưởng tràn về luôn luôn làm bận rôn tim ta. Nghe cách chữa trị dễ quá nhưng thật khó khăn để vứt bỏ, buông xả. Cho nên phải học thêm chữ Nhẫn. Cứ kiên nhẫn học hành, tu sửa …
Đao Từ Bi và Trí Tuệ sẽ giúp ta giảm thiểu được lòng tham, bỏ bớt được tính ích kỷ, chấp trách, ganh tị, và hiểu sâu xa hơn về các từ được mất, hơn thua, đau khổ, hạnh phúc, có không. Ta cứ trăn trở, cứ cố gắng đạt cho được những điều ta muốn rồi cũng đến lúc ta thấy tất cả đều vô nghĩa. Đến lúc đó ta sẽ được uống viên thuốc an tâm và bình an đi vào Đạo. Thật sự là rất khó, nhưng cố gắng, quyết tâm rồi cũng sẽ đi đến nơi dù chậm chạp và gặp nhiều khó khăn cản trở.
Tôi đã chọn được con đường tu học cho mình. Đó là con đuong “Bồ Tát Đạo”. Tôi học được ý nghĩa sâu xa của hai chữ “cho” và “nhận”, nhưng cũng phải lâu lắm tôi mới thấy được “cho” tức là “nhận”. Người cho tức là người nhận, mà là nhận quá nhiều. Ta tưởng ta giúp người mà thật sự là người đã giúp ta. Trước hết cho ta vững tin để mạnh dạn hơn mà vào Bồ Tát Đạo, thứ đến là niêm vui và hạnh phúc người nhận giúp ta nhận được chân giá trị của lòng Từ Bi và Hỷ Xả. Một bài tu học của pháp môn Tịnh Độ viết:
“Hành thập thiện cho đời tươi sáng
Bỏ việc ác để đời quang đãng
Đem phúc lành gieo rắc phàm nhân
Lời ngọc vàng ghi mãi bên lòng
Con nguyện được sống đời rộng rãi”
Xuân đang về , Tết đang đến, hoa đang nở, nắng xuân đang rực rỡ ấm áp. Xin hãy ươm mầm hy vọng và tin yêu vào một năm mới tràn đầy hạnh phúc và bình an. Cái cũ đã đi vào dĩ vãng, ta đang có một năm dài mới mẻ với cái tâm mùa Xuân để cùng với hai vị Thiền Sư thấy:
“Vũ trụ muôn đời vẫn mới tinh”

“Đêm qua sân trước một cành mai”
Đức Di Lặc đang vui cười đón chúng ta vào thăm Mùa Xuân trong Cửa Phật.
Chúng ta đang vui với Đạo nhưng chúng ta vẫn còn ở trong đời (Cư trần lạc đạo), cho nên chúng ta không thể chỉ cười với Đạo mà không đau cái đau của một đất nước nhỏ bé và con người khổ sở nghèo nàn của xứ Haiti vừa bị thiên tai tàn phá với trận động đất quá lớn đã san bằng ca một thành phố và giết chết một số lớn cư dân. Tai ương hoạn nạn đến nhanh quá, đa số sống sót bị thương nặng, mất hết nhà cửa, vô gia cư, mà ngay cả tổng thống Haiti cũng cùng chung số phận. Ông trả lời phỏng vấn: “Tôi cũng chẳng biết rồi sẽ ở đâu!”
Đau lòng quá, thương tâm quá! Biết làm gì hơn là cầu nguyện, cầu siêu cho những người chết tức tưởi được bình an trở về thế giới bên kia, và cầu xin cho người còn sống có đủ sức và lực để vượt qua được nỗi đau đớn mất mát quá lớn này.
Cả thế giới đều bàng hoàng xúc động và cùng hướng về xứ sở nhỏ bé ấy, đem trái tim yêu thương đến xoa dịu cái đau tàn phá hủy diệt này. Tất cả đều đến đây, cố vực dậy những đổ nát hoang tàn, đem thực phẩm thuốc men với hai bàn tay và khối óc để cứu giúp, chữa trị, hàn gắn những vết thương đau từ tâm hồn đến thể xác vật chất. Từ Bi và Bác Ái đang chung sức làm việc để tái tạo con người và đất nước nhỏ bé đau thương ấy.
Còn chúng ta thì xin cùng đến Nhà Thờ, Chùa để cầu xin Đức Chúa, Đức Phật ban ơn lành giúp người hoạn nạn. Với cái Tâm Xuân và lòng thành kính, chúng ta xin một mùa Xuân mới sẽ đến với đất nước Haiti, với sự góp tay của mọi người cùng xây dựng lại những đổ nát, hàn gắn những đau thương.
Xin Đức Bồ Tát Quán Thế Âm cứu khổ cứu nạn.
Đức Phật Từ Bi Trí Tuệ đang nghe lời nguyện cầu của chúng ta.
Cầu xin được an lành và bình yên cho nhân loại.
Trọng Đông 2010
Hoàng Hương Thủy



Wednesday, January 6, 2010

20 Năm có Nhà

Cái sợ người ta sợ nhất là chết, nhưng chết thì ai cũng phải đi qua và một lần thôi rồi hết. Cô đơn đáng sợ hơn nhiều. Thử tưởng tượng ngày này sang năm nọ, cứ phải trăn-trở-lủi-thủi đi qua cuộc đời phức tạp này. Sợ như không còn gì đáng sợ hơn nữa.

Có một lần tôi đã hát……
“Bước vào đời trăn trở
Gặp em như giấc mơ
Sao nghe lòng vẫn nhủ
Ngày vui đến bao giờ….”

Đến hôm nay là 20 năm. 20 năm có nhà. Một căn nhà nhiều lắm hạnh phúc hơn muộn phiền mà trong đó tình yêu thương, sự cảm thông và lòng chia xẻ là chìa khóa mở toang tất cả những cánh cửa u uẩn.

… Ngày vui đến bao giờ…. Đến hôm nay là 20 năm. 20 năm có nhà. Một căn nhà nhiều nhiều lắm lắm hạnh phúc vì nhà đã mọc lên hai bông hoa tuyệt vời hài hòa đầy sức sống.

...Ngày vui đến bao giờ… Đến hôm nay là 20 năm… và nhiều năm sau nữa.

Nguyễn Hòang Hà –Jan 06, 2010

Thursday, February 26, 2009

CAFÉ.... Ba và Con Gái

T.N. Phương Thảo

Một ngày của tôi bắt đầu bằng ly cà phê. Tôi cứ tưởng chừng như thiếu nó thế giới này sẽ ngừng lạiKhi tôi bắt đầu nhận thức được thế giới xung quanh, cũng là lúc tôi biết uống cà phê.Ngày đó mỗi sáng mẹ tôi thường thức dậy sớm làm thức ăn sáng, pha café cho ba và sữa cho chị em tôi . Ba thường hay nhỏ cho tôi vài giọt café vào ly sữa của con gái và tôi khoan khoái nốc cạn. Mẹ dĩ nhiên là cự nự ba nhưng ba có bài lơ hay lắm. Rồi từ vài giọt tôi nằn nì ba vài muỗng. Ba dĩ nhiên là không từ chối con gái bao giờ, cũng như bây giờ thì không tài nào từ chối cháu ngoại. Rồi dần dần ly sữa của tôi chuyển màu đậm hơn. Đến năm mười tuổi thì tôi đã đĩnh đương ké café sữa của ba. Rồi thì thời thế đổi thay, ba vào trại cải tạo. Ly sữa café tuổi thơ của tôi đã vĩnh viễn là chuyện của ngày hôm qua. Cuộc sống khó khăn café trở nên là thứ vô cùng xa xỉ thời đó. Tuy vậy, những lần hiếm hoi được đi thăm ba trong trại cải tạo mẹ không bao giờ quên mua cho ba vài lạng café cùng với các thứ nhu yếu phẩm linh tinh khác. Kể cả lúc bị đưa về Chí hòa ba cũng vẫn thường cùng các chú bác cùng phòng dùng lon guigoz và giấy và bao nilong để nấu nước pha café.Rồi ba trở về. Café lại trở lại với tôi. Chả bao giờ có đủ tiền để mua một lạng café, ba thường sai con gái mua lẻ ở quán café “Nhà mồ” góc đường Duy Tân và Phan Đình Phùng, từng phin một với một tí bơ dính ở đáy tách. Dĩ nhiên là tôi hăng hái đi liền để còn được ké của ba vài hớp. Lúc này café với tôi là café đen, màu đen nâu óng ánh thơm nức chứ không còn là café sữa dạo nào. Ba đi rồi tôi cũng vẫn mua café về tự pha uống với mẹ và em gái. Thế đấy café đã dần đi vào cuộc sống của tôi từ những giọt café đầu tiên ba nhỏ vào ly sữa mẹ làm cho tôi.Không biết bây giờ tôi có phạm sai lầm không, khi tôi lại để cho con gái tôi nhâm nhi cà phê buổi sáng. Khởi đầu cũng từ những giọt café vào ly sữa trắng. Tôi đã không nỡ từ chối vẻ năn nỉ của con. Nhìn hai con gái khà khoái chí sau mỗi hớp sữa café tôi lại tặc lưỡi “kệ”.Quả thực khó có thứ gì đắng, thơm, mạnh mẽ, dể nghiện và… khó quên như café, ba và hai con gái nhỉ.

Tuesday, January 27, 2009

Vang Vang Trời Vào Xuân

Tháng Giêng.

Đất trời sang Xuân. Mùa Xuân lại bắt đầu bốn mùa trong năm. Tiết Xuân lạnh mát từ từ thay cái lạnh buốt của mùa Đông. Cỏ cây hoa lá đâm chồi nẩy lộc như chiếc áo mới khoác lên người thiếu nữ thanh tân. Nhũng tiếng hót của đàn chim trong buổi bình minh đánh thức giấc ngủ dài trốn Đông của vạn vật. Trên khung trời xanh, từng đàn chim én lượn bay như những nét họa bay bướm của bức tranh Ngày Xuân Mới.

Ngày Xuân Mới cầu xin cho một vận hội mới bắt đầu. Xin cho lòng người đang ủ dột trong cơn bệnh kinh-tế-trầm-cảm được thoát thai. Hãy bước những bước chân mới tràn đầy tự tin vào ngày mai sẽ tươi sáng hơn vì ngày hôm qua đã quá u tối và không thể nào u tối hơn được nữa. Cuộc đời vẫn có những lúc con người phải tựa vào niềm tin ở đấng trên cao, cần tình thân ở chung quanh mình, và tin ở tự mình, thì đấy là lúc này đây.

Với những thân tình của tôi ở Nam Bán Cầu. Trời đất ở “miệt dưới” có lẽ đang vào Thu. Nếu mùa Xuân đẹp rạng rỡ như những thiếu nữ thanh tân thì mùa Thu đẹp mặn mà như những thiếu phụ liêu trai. Vậy thì xin được nối hai mùa ở Sydney như một mùa lạ – Mùa Xuân-Thu.

Và như thế, với tất cả thân tình tôi ở khắp mọi miền. Hãy mở toang tất cả những cánh cửa để ngắm bức tranh Mùa Xuân Mới thật đẹp ngoài kia, để nghe hoa lá thì thào lời tình tự, và để nghe nắng gió hát lời ca khúc Vang Vang Trời Vào Xuân (Cung Tiến).

Lời cuối, xin được gửi tất cả những thân tình một chân tình tôi.

Nguyễn Hoàng Hà – Tháng Giêng. Kỷ Sửu. 2009

Wednesday, December 3, 2008

Chuyển Mùa Thu Đông

Trời chuyển mùa từ Thu sang Đông rồi đấy.

Những cơn mưa đã bắt đầu và dai dẳng trên vùng Tây Bắc làm ướt mềm gót chân Seattle. Mưa tràn giang Portland, mưa trải dài xuống Cựu Kim Sơn (San Francisco) và thung lũng Hoa Vàng (San Jose).

Không gian ướt lạnh buổi sáng Phố Thiên Thần (Los Angeles). Hồ Ly Vọng (Hollywood) cạnh bên cũng mù sương. SàiGòn nhỏ (OC) lất phất mưa bụi đủ làm ướt áo học trò đi học buổi sáng. Dọc đường ven bờ Tây Thái Bình Dương về đến San Diego trời mù không còn thấy biển.

Mưa cũng đã đến miền Trung Tây. Mưa không dai dẳng, mưa không còn lất phất mà là những cơn mưa rầm rộ chợt đến chợt đi như những tay súng bá vàng miền cao bồi Texas. Cái nóng ẩm đã nhường lại chổ cho cái lạnh ướt.

Bên bờ Đại Tây Dương hoa tuyết đã lất phất rơi. Gió không còn là gió heo may mà là gió Đông làm co chân khách bộ hành Nữu Ước (NewYork), Hoa Thịnh Đốn (Washington DC). Xa hơn nữa về hướng Bắc là thành phố cổ và thơ Mộng Lệ An (Montreal) của Gia Nã Đại có dòng sông Saint Laurent chia đôi bờ tả hữu tuyết phủ.

Tháng 12 - Màu sắc của mùa lễ lạc rực rỡ khắp nơi. Đèn vàng xanh đỏ nhảy múa trước nhà sau sân như điệu luân vũ sưởi ấm lòng người vào cuối ngày khi thời gian vào tối và không gian thì sẽ lạnh hơn. Các thương xá lấp lánh đèn và đèn, cây Noel vĩ đại đầy ắp trang sức, người mua sắm, người đi ngắm và quà cáp... Trẻ con nôn nao chờ đến phiên mình được chụp hình với ông già NOEL.

Christmas is around the corner, năm 2008 sắp hết và ngoài kia là cơn bệnh trầm cảm kinh tế trĩu nặng lòng người. Chỉ còn biết mong làm được một nụ cười và một cái nắm tay sưởi ấm những thân-tình-tôi một ngày đầu Đông.

Thursday, October 2, 2008

Đi thăm người già

Đến thăm ông bà Phong, một buổi chiều hè rực nắng của Cali. Ông bà là nhạc gia của cậu Lô. Lạ hè, sao lại thăm ông bà nhạc của cậu? Thật ra ông bà cháu mình đã có duyên gặp nhau trước cả cậu nữa, ông bà nhỉ. Khi mà Hà nhỏ còn chưa biết đến hai vị cháu chồng này và cậu Lô cũng chưa từng được gặp nhạc phụ nhạc mẫu bằng xương bằng thịt (Mỹ gọi là to meet in person) thì “chúng mình” đã quen nhau. Từ “chúng mình” của bà hơi hay đấy, nên con lại mượn từ “chúng mình” của bà để nói về “chúng mình”…. đấy…. nhỉ…

Bao năm không gặp với ông bà mọi chuyện vẫn như là của ngày hôm qua, thời gian dường như dừng lại. Lâu lâu gặp cháu ông bà hỉ hả nói chuyện. Với người già thì thường chuyện xưa thì nhớ chuyện nay thì quên. Câu chuyện với ông bà cũng vậy, chỉ là những chuyện “ngày đó…. chúng mình…” Ngày đó chúng mình là tựa một bài hát của Phạm Duy, mà có khi tay nhạc sĩ họ Phạm này mượn từ “chúng mình” của bà cũng nên… đấy….nhỉ… Hết chuyện xưa, hai cháu chuyển sang nhại giọng bắc của ông bà. Ông chỉ cười hiền, còn bà dường như không biết đang bị trêu, vẫn cứ thong thả chậm rãi kể chuyện… ừ …và…. à…đấy … nhỉ… Ra về lại còn có một gói mang về nữa chứ. Dù có khi chả ăn (vì sợ béo lên) nhưng chúng con vẫn nhận quà của bà… để thấy mình dường như nhỏ lại… Đến thăm ông bà vừa được ăn được nói lại còn được gói mang về nữa chứ.

Vậy thì nên lắm chứ, thỉnh thoảng lại đi thăm người già để thấy thời gian ở lại và để được sống chậm lại. Nhịp đời vội vã đôi khi làm chúng mình cứ vô tình đi lướt qua nhau, lướt vội qua cuộc sống để rồi khi dừng lại mới chợt nhận ra rằng mình chẳng còn “chút gì để nhớ và để quên” (lời thơ Vũ Định - nhạc Phạm Duy).



T.N Phương Thảo